Thốt nốt - cây thuốc
quý
Thốt nốt còn có tên
gọi: Thnot (Campuchia) Maktankok (Lào), Palimier à sucre, rondier.
Tên khoa học: Borassus
Flabellifer L., (Pholidocarpus Tunicatus H. Wendl.)
Thuộc họ: Dừa
Palmaceae
Thốt nốt loại cây
thân cột, hình trụ, nhẵn đứng, cao tới 25 - 30 mét, chia thành từng
khoanh, ngấn vòng do cuống lá rụng để lại, lá mọc tập trung ở ngọn
thân, xoè rộng như tàu lá cọ, cuống dài có gai, hình quạt sẻ chân
vịt thành nhiều lá chét thuôn hẹp, dài 0,6 - 12 cm, mép có gai nhỏ.
Cụm hoa là những bông
mo, mang hoa đơn tính khác gốc. Mo rộng có cuống, hoa đực xếp trên
cuống chung hình trụ có nhiều lá bấc xếp lợp, nhỏ, 3 lá dài rời,
hình nêm. 3 cánh hoa rời, không đều, 6 nhị có chi ngắn, hoa cái to hơn,
dài và tràng hoa như hoa đực, bầu hình cầu, 3 cạnh có 3 - 4 ô.
Quả Thốt nốt to như
quả dừa, nhưng bên trong đặc, trong suốt thường có chứa 3 nhân cứng,
dẹt, đầu có một lỗ thủng.
Thốt nốt là loài cây
cổ nhiệt đới, mọc tự nhiên, được trồng phổ biến, nhiều ở miền Nam
nước ta. Tây Nam Bộ, Kiên Giang, Đồng Tháp, Tây Ninh, Cửu Long, Đông Nam
Bộ. Đặc biệt các nước bạn Lào, Campuchia, nó được trồng “đại trà”
đi bất cứ đâu cũng thấy Thốt nốt cao, to, xanh đẹp, từ vườn nhà đến
ngoài đồng ruộng, đặc biệt các đền chùa như đền Angkor, Thốt nốt cao
xanh đẹp bao bọc những vách đá cổ kính. Thốt nốt trồng ở Campuchia
có thể như thuộc tính đặc thù gắn liền với tên núi tên sông, đến
với Campuchia - đến với rừng Thốt nốt. Thốt nốt là loại cây chịu
khô, hạn, cả nóng, ngập nước, ưa ánh sáng, trồng được trên nhiều
loại đất. Nhưng Thốt nốt lại không chịu khí hậu mùa đông. Do đó Thốt
nốt không thể trồng ở miền Trung và
miền Bắc nước ta.
Trồng Thốt nốt bằng
hạt khi hạt nảy mầm và cây sống rất lâu hàng trăm năm, khi cây được 15
- 20 năm thì cho quả. Thốt nốt ra hoa hàng năm, thụ phấn chủ yếu nhờ
côn trùng hoặc gió.
Thốt nốt là loại cây
có nhiều lợi ích, bên cạnh tác dụng tốt và quý hiếm trong làm
thuốc chữa bệnh. Những bộ phận Thốt nốt được dùng làm thuốc như:
cuống, cụm hoa, rễ và dịch cây. Thốt nốt có giá trị cao trong sản xuất
đường Thốt nốt. Rượu Thốt nốt, có tính đặc sản như rượu Bầu đá ở
Bình định. Đường Thốt nốt là dịch chảy cụm hoa, cây non và rễ Thốt
nốt. Khi Thốt nốt ra hoa, vào buổi chiều và tối, người ta buộc ống
vào đầu cụm hoa, sau khi cắt một đoạn đầu hoa bằng đốt ngón tay, để
qua đêm thu được chừng 1 lít nước Thốt nốt. Nước Thốt nốt lấy trong
đêm ít chua, lại rất thơm, ngọt, ủ với lượng ít men sẽ cho ta một
thứ rượu như bia, nếu lượng men nhiều sẽ cho ta thứ rượu nặng hơn. Khi
Thốt nốt đã lấy nước thì không có quả. Quả Thốt nốt non ăn mát như
thạch, quả già có màu vàng thơm như mùi mít chín, nếu giã lọc sẽ
có bột dẻo như bột nếp. Do vậy, các chợ Campuchia có bán bánh phồng
tôm, bánh ú hoặc nấu chè đường Thốt nốt- những sản phẩm này rất
quý, hiếm vì ăn rất thơm, ngon và bổ.
Một cây Thốt nốt cho
từ 50 - 60 quả. Thốt nốt đực không có quả, không có nước, vẫn có
hoa. Hoa ra được hơn 1 tháng thì hoa héo dần và teo lại.
Thành phần hoá học
Nhựa cây Thốt nốt
chứa axít succinic, quả chứa polysacharit, thịt quả chứa chất đắng
Flabeliferin I và II. Flabeliferin II có 2 Glucoza và 2 Rhamnoza. Dịch ép
của vỏ quả ngoài chứa polysacharit trong đó có Galacto-araban 53%,
Glucoza 25%, Galactoza 3,1% arabinoza
2,6%, Xyloza 2,2% và Rhamnoza 1,5%.
Trong đó trong nước
dịch chảy từ bông mo chứa rất nhiều đường Sacaroza (10 - 15%).
Công dụng và liều dùng
Trong nhân dân, cuống
cụm hoa dùng để điều trị sốt cảm, sốt rét kèm lách to, sốt viêm
tấy, lợi tiểu. Liều dùng: cắt thái mỏng cuống cụm hoa cho 100 ml,
thêm vào 600 ml nước. Đun lửa than như ta rim mứt gừng khoảng 15 phút,
chia uống nhiều lần trong ngày.
Với tác dụng tẩy
giun: Cuống cụm hoa nướng trên lửa than hồng rồi vắt lấy nước, thêm
ít đường. Mỗi buổi sáng uống 100 ml, uống liên tục trong nhiều ngày
để tẩy giun.
Với rối loạn chức
năng đại tràng thể táo: Sáng sớm, cắt cụm hoa lấy nước chảy uống,
mỗi sáng 50ml liên tục, đại tiện phân sẽ tốt, hết táo bón.
Nhân dân Campuchia còn
pha chế rượu đường Thốt nốt như một đặc sản quý. Đường Thốt nốt
còn là vị thuốc rất quý giải độc trong những trường hợp ngộ độc
thuốc do Mã tiền.
Thốt nốt non và cả
rễ điều trị vàng da ứ mật, lỵ amíp, lỵ trực khuẩn, viêm nhiễm
đường hô hấp, tiểu tiện khó khăn. Mỗi ngày uống 50 - 60g dạng thuốc
sắc.
Các bộ phận khác
của cây Thốt nốt cũng có nhiều công dụng như: thân dùng làm cột xây
nhà, dầm cầu ở nông thôn; gỗ Thốt nốt đóng ghe thuyền; lá dùng lợp
nhà như lá cọ, lá dừa ở Việt Nam, làm nón đẹp xuất khẩu; vỏ tước
nhỏ bện quấn làm dây buộc rất bền chắc như dây thừng xơ dừa Việt
Nam.
Trang Xuân Chi (CTQ số
96)
Lương y Nguyễn Văn Dậu: 0918 950548
Địa chỉ: 60 Lâm Văn Bền, quận 7, Tp.HCM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét